Chào mừng bạn tới Đông Y Đại Lãn 2021-Khám chữa bệnh tại nhà Hà Nội

Thứ Tư, 3 tháng 6, 2020

Tagged Under:

CHÂM CỨU VÀ BỆNH ÁN TRỊ HO RA MÁU

Share
Châm Cứu Trị Ho Ra Máu

+ Nhiệt Thương Phế Lạc: Thanh nhiệt nhuận Phế, lương huyết, chỉ huyết. Dùng huyệt Phế du, Khổng tối, Ngư tế, Liệt khuyết. Châm tả.

(Liệt khuyết là lạc huyệt của kinh Phế có tác dụng thanh tả nhiệt ở kinh Phế và Đại trường; Phế du là huyệt bối du rót kinh khí vào Phế, dùng để thanh Phế, giáng hoả, lương huyết, chỉ huyết; Ngư tế là huyệt Vinh của kinh Phế là huyệt chủ yếu để thanh tả nhiệt ở Phế; Khổng tối là huyệt Khích của kinh Phế là huyệt đặc hiệu trị ho ra máu).

Nếu ngoại cảm, thêm Phong môn. Có Can hoả, thêm Thái xung hoặc Hành gian. Máu ra nhiều thêm Dũng tuyền (Tân Biên Trung Quốc Châm Cứu Học).

+ Âm Hư Hoả Vượng: Tư âm, nhuận Phế, giáng hoả, chỉ huyết. Dùng huyệt Phế du, Trung phủ, Thái khê, Đại chuỳ.

(Phế du, trung phủ là phối hợp Bối du và Mộ huyệt để tư Phế âm, thanh Phế hoả; Thái khê là huyệt Nguyên của kinh Thận đẻ kích thích Thận âm, nhuận Phế, giáng hoả; Đại chuỳ trị nóng trong xương, sốt về chiều) (Tân Biên Trung Quốc Châm Cứu Học).

+ Dùng dịch chích Ngư tinh thảo 2~4mg, thuỷ châm huyệt Khổng tối, mỗi huyệt 1ml, ngày 2 lần. Sau khi máu bớt ra, mỗi ngày hoặc cách ngày chích một lần, huyệt bên phải hoặc bên trái thay đổi nhau.

Đã trị 100 ca, khỏi hoàn toàn 93, kết quả ít 3, có kết quả 1, không khỏi 3. 97 ca khỏi, trung bình 2,4 ngày là không ra máu nữa ((Ngư Tinh Thảo Dịch Huyệt Chú Trị Liệu Chi Khí Quản Phì Trướng Lạc Huyết 1000 Liệt Báo Cáo – Trung Y Tạp Chí 1990, 31 (5): 40).

Bệnh Án Ho Ra Máu
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’)
Khương X, nam, thanh niên. Ho đã lâu không khỏi, trong đờm có lẫn máu, lúc có lúc không, kém ăn, mỏi mệt, hơi thở ngắn, mạch Tế Hoạt, đầu lưỡi đỏ, ít rêu. Cho dùng Bắc sa sâm, Mạch môn, Bách bộ, Bạch truật, Phục linh, Tỳ bà diệp đều 12g, Hải cáp xác 20g, Cát cánh 8g, Ngũ vị tử 2g, Cam thảo (chích) 4g. Uống gần một tháng mới khỏi.

Cát X, nữ, 29 tuổi. Bị ho khan hàng tháng, xem ra không phải là ngoại cảm. Do ho nhiều làm dương lạc bị tổn thương, trong đờm có lẫn máu, mạch Huyền Tế mà Sác. Có thể đoán là chứng Can hoả phạm Phế, Phế lạc bị tổn thương nên ho ra máu. Nếu ho khan lâu không khỏi thì khạc ra máu không ngừng. Cần dùng phép thanh nhẹ đề hoà thượng tiêu, hợp với phép bình Can giáng hoả. Phế khí được thanh thì bệnh sẽ khỏi. Cho dùng: Tang diệp, Bách bộ (chưng, Hoàng cầm, Địa cốt bì, Đan sâm đều 12g, Cam thảo (sống) 4g, Đại Cáp Tán 16g. Sau khi uống, bệnh giảm nhẹ dần.

Bệnh Án Ho Ra Máu
(Trích trong ‘Việt Nam Đông Y Tạp Chí 1968 (96): 19)
Trần Thị… 65 tuổi. Ngày khám: 14-5-1968Ho hơn một năm, đã trị nhiều thuốc Đông Tây y không khỏi. Khám thấy: da nhạt, có lúc đỏ rồi hơi nhạt, tiếng nói yếu, ho đã lâu, có lúc ho ra đờm lẫn máu, ăn kém, khó thở, chân lạnh, hơi khát, mệt mỏi, nước tiểu vàng, đại tiện ít. Mạch hai bộ thốn Hoạt Sác, bộ quan và xích Hoãn.

Chẩn đoán: Bệnh ho lâu thành chứng hư lao và hai bộ thốn Hoạt Sác là do Tâm hoả nung nấu Phế kim khiến cho phổi bị khô thành chứng đờm khô, các bộ khác Hoãn là do Tỳ Thận đều hư, liên hệ đến Phế nên gây ra ho có lẫn máu.

Điều trị: Tư bổ Tỳ Thận, thanh nhiệt, nhuận Phế táo.

Dùng bài Toàn Chân Nhất Khí Thang gia giảm: Thục địa (tẩm Gừng nướng) 12g để bổ Tỳ Thận, Bố chính sâm (Tẩm Gừng sao² 20 để bổ Tỳ Phế, Bạch truật (sao) 8g để bổ Tỳ, Hoài sơn 12 bổ Tỳ Thận, Mạch môn (sao) 20g để nhuận Phế, chỉ khái, Ngũ vị tử 4g liễm âm tư Phế, Ngưu tất 6g dẫn hoả hạ hành, Thán khương 8g chỉ huyết, Tử uyển, Khoản đông hoa đều 12g chỉ khái huyết, Tỳ bà diệp (tẩm mật sao) chỉ khái, Thổ bối mẫu 12g trừ đờm, giáng hoả, A giao 12g nhuận táo, bổ hư lao. Sắc 5 thang.

Uống thuốc xong, bệnh đỡ được 7 phần. Tiếp tục cho uống thêm 10 thang nữa, khỏi hẳn.

BS Nguyễn Đức Trí