Chào mừng bạn tới Đông Y Đại Lãn 2021-Khám chữa bệnh tại nhà Hà Nội

Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2020

Tagged Under:

BÁT MẠCH TỔNG CƯƠNG

Share

1. MẠCH PHÙ


Phù là nổi. Vật nhẹ thì nổi phồng lên trên, như gió thổi phồng.


Mạch Phù nổi như gió thổi, gió thổi mạnh thì đi nhanh, đi gọn trong ống mạch, nổi cao mà thẳng. Gió thổi yếu thì đi chậm, đi mở rộng ra hai bên ống mạch, không nổi cao mà lại bè ra dèn dẹt.

Mạch Phù nổi lên dưới làn da, trên thịt (nơi da thịt giáp nhau), để nhẹ ngón tay xem đã thấy sức mạch đi đẫy đà (hữu dư), mà ấn nặng ngón tay xuống thì không thấy gì, dù có thấy cũng rất yếu ớt (bất túc).

Mạch Phù chủ bệnh ngoại cảm, phong: phong nhiệt, phong hàn, phong đàm, phong thấp, phong độc v.v…

2. MẠCH TRẦM


Trầm là chìm, vật nặng thì chìm xuống như đá nặng thì chìm sâu.


Mạch trầm chìm như đá nặng. Đá nặng nhiều thì chìm sát xương, đá nặng vừa thì chìm lơ lửng trên xương.

Mạch trầm chìm xuống đi dưới thịt, trên xương (nơi thịt xương giáp nhau), ấn nặng ngón tay xuống thì sức mạch đi mạnh chắc (hữu dư), mà nâng ngón tay lên thì sức mạch đi yếu, hầu như không có (bất túc).

Xem hai mạch phù trầm căn cứ vào để nhẹ tay, ấn nặng tay mà biết. Nhẹ tay đã thấy mạch phù, nặng tay mới thấy mạch trầm.

So sánh 2 mạch phù trầm. Phù nổi không chìm (phù bất trầm). Trầm chìm không nổi (trầm bất phù). Phù hữu dư, Trầm bất túc. Phù thuộc phong, bệnh ở biểu, là dương. Trầm thuộc khí huyết, bệnh ở lý, là âm.

Mạch trầm chủ bệnh khí. Khí trầm tích không lưu hành thông hoạt là bệnh: Khí thống, khí uất, khí nhiệt, khí hàn, khí tích, khí trệ, khí nghịch v.v…

3. MẠCH TRÌ



Trì: là chậm, sức mạch đi chậm chạp. Cứ một hơi thở (thở ra hít vào là một hơi, tên chữ là “nhất tức”) của thầy thuốc, Mạch của người bệnh đi đến dưới ngón tay thầy thuốc 3 lần, có khi chậm quá chỉ đếm 2 lần (nhất tức tam chí hay nhị chí). Khi mạch đi chậm phải nhận biết là phù án chậm hay trầm án chậm hoặc cả phù trầm đều chậm.

Mạch trì chủ bệnh Hàn. Bởi dương khí suy hư, tức chân hỏa yếu kém, làm trong bụng hàn mà ngoài da cũng cảm hàn (biểu lý đều hàn).

4. MẠCH SÁC



Sác: là mau, là luôn luôn. Sác mạch đi luôn luôn mau lẹ. Cứ một hơi thở của thầy thuốc, mạch của người bệnh đi đến dưới ngón tay thầy thuốc 6 lần (nhất tức lục chí). Khi mạch đi nhanh phải nhận biết là Phù án hay Trầm án nhanh, hay cả phù trầm đều nhanh.

Xem hai mạch Trì Sác, căn cứ vào hơi thở với số mạch đến nhiều ít mà biết: Tam chí là trì, lục chí là sác.

So sánh hai mạch trì sác: Trì chậm không nhanh, Sác nhanh không chậm. Trì bất cập, Sác thái quá.
Trì là bệnh hàn ở tạng, thuộc âm, Sác là bệnh nhiệt ở phủ, thuộc dương.

Mạch Sác chủ bệnh nhiệt, nhẹ thì toàn thân nóng nảy bứt rứt, nặng thì Tâm buồn phiền phát cuồng loạn.

Phù Trầm Trì Sác 4 mạch này đã nói lên đủ cả âm dương, biểu lý, hàn nhiệt. Các mạch sau đây, sức mạch đi tuy có khác nhưng cũng không ra ngoài cái lý âm dương- biểu lý- hàn nhiệt ấy. Cho nên 4 mạch này là tiêu chuẩn để xem tất cả các mạch nói sau. Vây ta nên suy xét tìm hiểu 4 mạch đầu này cho tinh kỹ, các mạch sau rất dễ hiểu.

5. MẠCH TẾ



Tế là nhỏ. Sức mạch đi tuy nhỏ, nhưng còn có thể xem thấy nó có đi, có lại, chứ không quá nhỏ như mạch Vi. Tức là Tế còn lớn hơn Vi một chút (ta hiểu nhỏ có nghĩa đường mạch teo nhỏ như sợi chỉ, chứ không còn là cái ống mạch nữa).

Mạch Tế chủ bệnh khí huyết suy. Nguyên khí và Tinh huyết đều suy kém.

6. MẠCH ĐẠI


Đại là to lớn. Sức mạch đi Phù án thì như nước nổi lên tràn đầy dưới ngón tay ta, mà trầm án thì lại lan rộng ra mà mềm yếu đi, tức là phù án thì hữu lực, mà trầm án thì vô lực.

Mạch Đại chủ bệnh đang phát nặng. Vì khí huyết suy không đử sức chế ngự Tà khí, Tà khí mạnh hơn Khí huyết thì bệnh phát nặng.


7. MẠCH TRƯỜNG



Trường là dài không ngắn. Sức mạch đi dù mạnh dù yếu đều chạy ra ngoài bản vị của mạch. Ví dụ: từ bộ xích chạy tuột ra cả ngoài bộ Thốn. Mạch Trường dài trái với mạch Đoản ngắn (xem mạch Đoản số 24 mà so sánh).

Mạch Trường chủ về khí, khí huyết có mạch lạc đường lối phân minh là không rối loạn. Nếu khi có bệnh, thấy mạch Trường kèm theo mạch Hoãn thì bệnh gì cũng dễ trị.

8. MẠCH ĐOẢN



Đoản là ngắn không dài. Sức mạch đi ngắn cụt, chỉ xê dịch yếu ớt ở dưới đầu ngón tay, không vượt ra ngoài đầu ngón tay được, tức là khí không đủ sức đẩy đi. Mạch Đoản ngắn trái với với mạch Trường dài (xem mạch Trường số 13 mà so sánh).

Mạch Đoản chủ bệnh khí thiếu (thiếu hơi thở, đoản hơi thở), bởi phế khí hàn trệ hay Vị khí suy nhược làm mệt nhọc, đoản hơi không thở được hơi dài. Bất luận bệnh gì hễ thấy mạch Đoản đều khó trị.











BS Nguyễn Đức Trí