Chào mừng bạn tới Đông Y Đại Lãn 2021-Khám chữa bệnh tại nhà Hà Nội

Thứ Tư, 3 tháng 6, 2020

Tagged Under:

HO RA MÁU

Share
 Xem thêm : Bài thuốc kinh nghiệm trị ho ra máu
                     Châm cứu và y án trị ho ra máu

              
HO RA MÁU
(Khái Huyết – Hemoptysis – Hémoptysie)
Là trạng thái máu ở Phổi do ho mà ra hoặc toàn là máu, hoặc máu lẫn trong đờm.
Ho ra máu chỉ là triệu chứng của nhiều nguyên nhân, nhưng triệu chứng lâm sàng có nhiều điểm giống nhau trong mọi trường hợp.
Ho ra máu có thể xẩy ra đột ngột trong lúc người bệnh cảm thấy khoẻ mạnh, hoặc sau khi hoạt động mạnh, sau khi ăn nhiều, nói nhiều, xúc cảm mạnh, thay đổi thời tiết đột ngột hoặc trong giai đoạn hành kinh.

Thông thường 90% trường hợp ho ra máu là do bệnh lao đang tiến triển (Nếu kèm ho kéo dài, sốt nhẹ, sút cân thì càng chắc chắn). Nếu ho ra máu chút ít lẫn trong đờm, tái phát một vài lần mà không có sốt hoặc sút cân cũng nên nghĩ đến bệnh lao kín đáo.

Nguyên Nhân Theo Đông Y

-Từ rất xưa, sách Nội Kinh đã đề cập đến tà khí bên ngoài xâm nhập vào, tình chí không điều hoà có thể gây nên ho ra máu.
Thiên ‘Ngọc Cơ Chân Tạng Luận’ (Tố Vấn 19) viết: “Mạch mùa Thu… bất cập thời khiến người ta bị suyễn, hơi thở thiếu khí mà ho, ở phần trên đôi khi thấy có máu…”.
-Thiên ‘Chí Chân Yếu Đại Luận’ (Tố Vấn 74) viết: “ Thiếu dương Tư thiên… mắc bệnh đầu thống, phát sốt, sợ lạnh mà sốt rét. Nhiệt phát ra bì phu, bì đau, sắc biến ra vàng hoặc đỏ, gây nên chứng thuỷ, mình, mặt phù, thủng, bụng đầy trướng, phải ngửa lên mà thở, kiết lỵ đỏ hoặc trắng, mụn lở, ho, ho ra máu, Tâm phiền, trong ngực nóng, quá lắm thời cừu, nục (chảy máu cam)…”.
-Thiên ‘Kinh Mạch’ (Linh Khu 10) viết: “Túc Thiếu âm Thận kinh… Nếu là bệnh thuộc ‘Thị động’ sẽ gây thành chứng đói mà không muốn ăn, mặt đen như dầu đen, lúc ho nhổ nước bọt thấy có máu, suyễn nghe khò khè…”.
-Thiên ‘Mạch Giải’ (Tố Vấn 49) viết: “Nói là Khái thời lại có huyết... Đó là vì Dương mạch bị thương. Dương khí chưa thịnh ở bộ phận trên mà mạch lại mãn. Mãn thời khái, mà thường khi lại ra cả ở mũi”.
-Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận – Khái Thấu Nùng Huyết Hậu’ viết: Phế bị cảm hàn nhẹ thì thành ho, ho làm thương tổn dương mạch thì có máu”.
-Sách ‘Huyết Chứng Luận’ nhận định: “ … Vậy trước phải biết nguồn gốc của bệnh ho rồi sau mới trị được bệnh khái huyết… Hoặc do ngoại cảm ra máu, hoặc do bì mao hợp với Phế gây ho, hoặc do tích nhiệt ở Vị, hoả thịnh lấn kim khiến khí nghịch lên gây ho, đó là thực chứng của chứng mất máu gây nên. Hoặc do âm hoả vượng lên, Phế không yên, không thanh, khô ráo gây nên ho, hoặc hợp với lo nghĩ, u uất của Tỳ cùng với hư hoả của Tâm gây nên ho, hoặc do Thận dương hư, dương khí không nương vào đâu được, bốc lên gây ra ho, đó là hư chứng của bệnh thất huyết mà sinh ho vậy”.
Trên lâm sàng, theo Đông Y, ho ra máu có thể do:
+ Ngoại Tà Lục Dâm xâm nhập vào Phế gây nên ho, nếu tà khí làm tổn thương Phế lạc, huyết tràn vào khí đạo sẽ gây nên ho ra máu.
+ Can Hoả Phạm Phế: Phế khí vốn suy yếu, nay do tức giận, tình chí không thoải mái, Can uất hoá thành hoả, bốc lên làm tổn thương ngược lại Phế, Phế lạc bị tổn thương thì sẽ ho ra máu.
+ Phế Thận Âm Hư: Thận âm là gốc của âm dịch, Phế âm là gốc của Thận âm (Kim sinh thuỷ), bệnh lâu ngày làm cho khí âm bị hao tổn gây nên âm hư, Phế táo, hư hoả quấy nhiễu bên trong, làm cho lạc của Phế bị tổn thương, gây nên ho ra máu.
+ Khí Hư Bất Nhiếp: Khí là vị tướng coi sóc huyết, khí có tác dụng nhiếp huyết, nếu do lao thương quá sức hoặc do ăn uống không điều độ hoặc thất tình nội thương hoặc ngoại cảm lục dâm, bệnh kéo dài trị không khỏi đều có thể làm tổn thương chính khí, khí hư không nhiếp được huyết, huyết có ai cai quản sẽ đi lên vào khí đạo, gây nên hoa ra máu. Sách ‘Cảnh Nhạc Toàn Thư – Thổ Huyết Luận’ viết: “Ưu tư quá mức làm hại Tâm Tỳ, gây nên thổ huyết, ho ra máu”.
+ Uống Nhiều Loại Thuốc Cay, Ấm, Nóng: Do cơ thể vốn suy nhược, hoặc bệnh lâu ngày hư yếu mà lại thích tư bổ và cường dương, uống những loại thuốc ôn, táo, nhiệt lâu ngày táo nhiệt sẽ sinh ra bên trong, hoá thành hoả, làm tổn thương tân dịch, gây thương tổn Phế lạc sinh ra khái huyết.
Triệu Chứng  lâm sàng thường gặp:
1. Phong Hàn Phạm Phế:
 Hơi sốt, sợ lạnh nhiều, đầu đau, mũi nghẹt, ho tiếng nặng, ho đờm xanh, trong đờm có lẫn máu, lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Phù Khẩn hoặc Phù Hoãn.
-Điều trị: Sơ tán phong hàn, tuyên Phế, chỉ huyết.
- Dùng bài Kim Phất Thảo Tán gia giảm:
 Kim phất thảo             Kinh giới              Tiền hồ
 Phục linh                      Bán hạ                 Tiên hạc thảo
Tây thảo                       Bạch mao căn      Sinh khương
Sắc uống.
(Đây là bài Kim Phất Thảo Tán bỏ Ma hoàng, Xích thược, cam thảo, thêm Tiên hạc thảo, Tây thảo, Bạch mao căn tạo thành. Trong bài dùng Kim phất thảo làm chủ dược để ôn tán, giáng nghịch, hoá đờm, chỉ huyết; Kinh giới, Sinh khương sơ phong, tán hàn, tuyên Phế, giải biểu; Tiền hồ hoá đờm, chỉ khái, tuyên giáng Phế khí; Phục linh, Bán hạ hoá đờm, hoà trung; Tiên hạc thảo, Tây thảo, Bạch mao căn để chỉ huyết, hoá ứ).
2. Phong Nhiệt Phạm Phế:
 Sốt nhiều, sợ lạnh ít, ho nhiều đờm, đờm mầu vàng, khó khạc đờm, trong đờm có lẫn máu, máu mầu đỏ tươi, đầu đau, khát, họng đau, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhạt, mạch Phù Sác.
-Điều trị: Thanh nhiệt, tuyên Phế, lương huyết, chỉ huyết. 
-Dùng bài Ngân Kiều Tán gia giảm: 
Ngân hoa               Liên kiều               Trúc diệp
 Kinh giới huệ        Bạc hà                    Bản lam căn
 Ngưu bàng tử        Tây thảo                Lô căn
 Ngẫu tiết                Tiên hạc thảo
 Sắc uống.
(Đây là bài Ngân Kiều Tán bỏ Cát cánh, Cam thảo, Đậu xị, thêm Bản lam căn, Tây thảo, Tiên hạc thảo, Ngẫu tiết tạo thành. Trong đó, Ngân hoa, Liên kiều, Trúc diệp thanh nhiệt, thấu tà; Lô căn thanh nhiệt, sinh tân; Ngưu bàng tử, Kinh giới huệ, Bạc hà sơ tán phong nhiệt; Bản lam căn giải độc, lợi hầu; Tây thảo, Lô căn, Ngẫu tiết, Tiên hạc thảo lương huyết, chỉ huyết).
Nếu ho ra máu thêm Vân Nam Bạch Dược hoặc Tam thất (phấn) quấy vào uống để tăng tác dụng cầm máu. Nếu đờm nhiệt ủng Phế mà phát sốt, ho đờm nhiều, mầu vàng, thêm Thiên Kim Vi Hành Thang để thanh nhiệt, hoá đờm, tuyên Phế. Nếu tà ở biểu chưa giải, nhiệt thịnh làm tổn thương tân dịch thấy ho khan, không đờm hoặc ít đờm mà dính, lưỡi đỏ, ít tân dịch, bỏ Kinh giới huệ, Bạc hà, thêm Thiên môn, Mạch môn, Thiên hoa phấn, Nguyên sâm để dưỡng âm, nhuận táo.

3.Táo Nhiệt Thương Phế:
 Ho khan, ít đờm, khó khạc đờm, trong đờm có lẫn máu hoặc ho ra máu, mũi và họng khô, tâm phiền, khát, thân nhiệt, táo bón, lưỡi đỏ ít rêu hoặc rêu lưỡi vàng nhạt mà khô, mạch Phù Sác.

-Điều trị: Thanh Phế, nhuận táo, ninh lạc, chỉ huyết. 
-Dùng bài Tang Hạnh Thang gia giảm: 
Tang diệp                    Chi tử                 Sa sâm
 Bối mẫu                      Lê bì                   Hạnh nhân
 Ngân hoa                    Mạch môn          Trắc bá diệp
 Bạch mao căn            Cam thảo.
 Sắc uống.
(Đây là bài Tang Hạnh Thang bỏ Đậu xị thêm Kim ngân hoa, Mạch môn, Trắc bá diệp, Bạch mao căn và Cam thảo tạo nên. Trong bài dùng Tang diệp, Chi tử, Ngân hoa để thanh tuyên Phế nhiệt; Sa sâm, Mạch môn, Lê bì dưỡng âm, thanh nhiệt; Bối mẫu, Hạnh nhân nhuận Phế, chỉ khái, hoá đờm; Trăc bá diệp, Bạch mao căn thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết.
Nếu tân dịch quá ít, có thể thêm Nguyên sâm, Thiên hoa phấn, Sinh địa để giúp dưỡng âm, nhuận táo. Ra máu nhiều không cầm, có thể thêm Tuên hạc thảo, Bạch cập, Đại kế, Tiểu kế, để lương huyết, cầm máu hoặc hợp chung với bài Thập Khôi Tán gia giảm để tăng cường tác dụng lương huyết, cầm máu.
4.Can Hoả Phạm Phế:
 Ho, đờm có lẫn máu hoặc ho khạc ra máu tươi, đầu đau, chóng mặt, ngực và hông sườn trướng, đau, phiền táo, dễ tức giận, miệng đắng, họng khô, tiểu ít, nước tiểu vàng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi hơi vàng, mạch Huyền Sác.
-Điều trị: Tả Can, thanh Phế, lương huyết, chỉ huyết.
- Dùng bài Tả Bạch Tán hợp với Đại Cáp Tán gia giảm:
 Đại Cáp Tán                      Tang diệp                Địa cốt bì
Sinh địa                               Chi tử                      Cam thảo
 Bạch mao căn                    Tiểu kế                    Trắc bá diệp
 Ngạnh mễ.
(Đây là bài Tả Bạch Tán hợp với Đại Cáp Tán thêm Sinh địa, Chi tử, Cam thảo, Lô căn, Tiểu Kế, Trắc bá diệp tạo thành. Đại Cáp Tán lương Can, chỉ huyết; Tả Bạch Tán thanh tả Phế nhiệt; Chi tử, Sinh địa, Mao căn, Tiểu kế, Trắc bá diệp thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết).
Nếu Can hoả nhiều quá, đầu váng, mắt đỏ, tâm phiền, dễ tức giận có thể dùng Long Đởm Tả Can Thang thêm Đơn bì, Đại giả thạch để thanh Can, tả hoả.
-Nếu hoả thịnh làm cho huyết động khiến cho máu ra không cầm, có thể dùng bài Tê Giác Địa Hoàng Thang gia giảm để thanh nhiệt, lương huyết.
-Nếu hông sườn đau, máu ra nhiều, mầu đỏ tía. Đó là huyết kết tụ ở Đởm. Dùng phép sơ Can, tiết nhiệt, lương huyết, tiêu ứ. Dùng bài Đan Chi Tiêu Dao tán thêm Tam thất phấn, Hải cáp xác, Hải phù thạch để cầm máu, tiêu ứ, tán kết (Trung Y Cương Mục).
5.Âm Hư Hoả Vượng:
 Ho khan, ít đờm, họng khô, trong đờm có máu hoặc ho ra máu, máu mầu đỏ tươi, gò má đỏ, sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, lòng bàn tay chân nóng, gầy ốm, đầu váng, tai ù, lưng đau, chân mỏi, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế Sác.
-Điều trị: Tư âm. Nhuận Phế, lương huyết, chỉ huyết.
- Dùng bài Bách Hợp Cố Kim Thang gia giảm: 
Sinh địa                 Thục địa                       Bách hợp
 Mạch môn           Nguyên sâm                 Bối mẫu
Đương quy           Thược dược                 Cam thảo
Bạch cập               Ngẫu tiết                      Tây thảo.
(Đây là bài Bạch Hợp Cố Kim Thang bỏ Cát cánh thêm Bạch cập, Ngẫu tiết, Tây thảo. Bách hợp, Mạch môn, Nguyên sâm, Sinh địa, Thục địa dưỡng âm, thanh nhiệt, sinh tân, nhuận táo; Đương quy, Bạch thược dưỡng huyết, nhu Can; Bối mẫu, Cam thảo tuyên Phế, hoá đờm; Bạch cập, Ngẫu tiết, tây thảo lương huyết, chỉ huyết).
Gò má đỏ, sốt về chiều, có thể thêm Thanh hao, Miết giáp, Địa cốt bì, Bạch vi để thanh thoái hư nhiệt. Mồ hôi trộm rõ, thêm Phù tiểu mạch, Mẫu lệ, Ngũ bội tử để thu liễm, cố sáp. Âm hư hoả vượng do Phế lao có thể dùng bài Nguyệt Hoa Hoàn.
6.Khí Bất Nhiếp Huyết:
 Sắc mặt không tươi, uể oải, mệt mỏi, tiếng nói yếu, nhỏ, chóng mặt, tai ù, hồi hộp, ho, tiếng ho nhẹ, trong đờm có máu hoặc máu ra thành sợi hoặc ho ra máu hoặc kèm chảy máu mũi, tiêu ra máu, da có vết ban đỏ, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng mạch Trầm Tế hoặc Hư Tế mà Khổng (Khâu).
-Điều trị: Ích khí, nhiếp huyết.
- Dùng bài Chửng Dương Lý Lao Thang gia giảm: 
Nhân sâm                   Hoàng kỳ                Bạch truật
Cam thảo                    Đương quy              Hoàng kỳ
Tiên hạc thảo              Bạch cập                 A giao
 Tây thảo                    Tam thất.
(Đây là bài Chửng Dương Lý Lao Thang bỏ Nhục quế, Ngũ vị tử, Sinh khương, Đại táo thêm Tiên hạc thảo, Tây thảo, Tam thất, A giao và Bạch cập. Dùng Nhân sâm, Hoàng kỳ để ích khí, nhiếp huyết; Trần bì lý khí, hoà Vị; Bạch truật, Cam thảo kiện Tỳ, ích khí; Đương quy, A giao dưỡng huyết, hoà huyết; Tiên hạc thảo, Tây thảo, Bạch cập, Tam thất lương huyết, tiêu ứ, chỉ huyết).

BS Nguyễn Đức Trí